Những hiện vật kể chuyện - Ký ức một thời bom đạn tại Bảo tàng Thanh Hóa
Những chiếc túi cứu thương, đôi dép trẻ thơ, chiếc ca đựng nước hay tấm áo thủng lỗ bom bi… vẫn lặng lẽ nằm trong không gian trầm mặc của Bảo tàng Thanh Hóa. Chúng không đơn thuần là những vật dụng cũ kỹ, mà là những chứng nhân sống động, kể lại bằng chính hình hài của mình một thời kỳ máu lửa, đau thương mà hào hùng của vùng đất xứ Thanh.
Thanh Hóa - vùng đất địa linh nhân kiệt, từng giữ vị trí chiến lược đặc biệt trong kháng chiến chống Mỹ. Là “điểm tắc lý tưởng” mà kẻ thù nhắm đến để cắt đứt tuyến chi viện từ Bắc vào Nam, Thanh Hóa đã trở thành mục tiêu đánh phá ác liệt, là nơi chứng kiến sự sống và cái chết chỉ cách nhau một nhịp thở. Trong hai ngày 3 và 4 tháng 4 năm 1965, không quân Mỹ đã trút xuống Hàm Rồng hơn 1.000 tấn bom, quyết tâm hủy diệt cây cầu chiến lược và ý chí kháng chiến của quân dân nơi đây. Nhưng đáp lại, người xứ Thanh đã viết nên bản anh hùng ca bằng lòng quả cảm: 47 máy bay Mỹ bị bắn rơi, nhiều giặc lái bị bắt sống. Báo chí phương Tây gọi đó là “hai ngày đen tối nhất của không lực Hoa Kỳ”.
Từ năm 1965 đến 1973, Thanh Hóa hứng chịu hơn 78.000 lượt máy bay, gần 15.000 trận đánh phá, 6.229 lượt tàu chiến bắn phá vùng biển, cùng khoảng 200.000 tấn bom đạn tương đương 220kg bom cho mỗi người dân. Chiến tranh đã cướp đi hơn 8.200 mạng người, làm bị thương gần 13.000 người, phá hủy hoàn toàn hàng loạt công trình dân sinh: trường học, bệnh viện, xí nghiệp, nhà dân… Giữa tro tàn ấy, hàng vạn con người vẫn kiên cường bám đất, giữ làng, góp phần làm nên một hậu phương vững chắc cho tiền tuyến.
Tất cả những mất mát, hy sinh ấy không chỉ nằm trong những con số, mà đang lặng thầm hiện diện tại Bảo tàng Thanh Hóa, qua từng hiện vật mang trong mình câu chuyện không thể nào quên. Chiếc túi cứu thương của nữ dân quân Lê Thị Dung - người con gái Nam Ngạn là một trong những kỷ vật đặc biệt nhất. Trong trận chiến tại Hàm Rồng ngày 26/5/1965, khi pháo thủ trên tàu hi sinh, chị Dung dũng cảm tiếp đạn thay đồng đội, và ngã xuống ngay tại trận địa. Chiếc túi nhỏ bé theo chị suốt những ngày chiến đấu giờ đây là biểu tượng của tinh thần quả cảm và sự hy sinh cao cả.
Gần đó, chiếc phích nước móp méo vì mảnh bom từng được tiểu đội Công an nhân dân vũ trang gom góp tiền mua làm vật dụng đựng nước cho các chiến sĩ nơi chiến hào, hiện vật tuy giản đơn nhưng lặng lẽ kể lại sự khắc nghiệt nơi tuyến lửa. Cạnh đó, bộ ấm chén của sư bà Đàm Thị Xuân - trụ trì chùa Mật Đa (Nam Ngạn) được dùng để pha nước tiếp tế cho pháo binh phòng không trong những ngày cam go đầu tháng 4/1965. Một bộ ấm chén đơn sơ nhưng chứa đựng cả nghĩa tình quân dân, sự hòa quyện giữa đạo và đời trong những ngày bom rơi đạn nổ.
Chiếc xoong nhôm méo mó của anh Mai Công Danh - người lính thủy vận tải xã Nga Thành, huyện Nga Sơn mang theo một câu chuyện đau đáu. Trước khi hy sinh vì trúng bom năm 1967, anh chỉ vào chiếc xoong bị méo mó do sức ép bom: “Đến cái xoong không gây tội tình gì cũng bị phá thế này đây.” Câu nói ấy, tưởng như đơn giản, lại chất chứa nỗi căm phẫn và là lời tố cáo không lời về sự phi lý và tàn bạo của chiến tranh.
Không chỉ người lính, mà cả trẻ em cũng là nạn nhân đau thương của bom đạn. Đôi dép nhựa của em Cảnh (3 tuổi, học sinh Trường Mẫu giáo Đông Vệ) là một kỷ vật xót xa. Em cùng 10 người khác thiệt mạng trong căn hầm trú ẩn do bom Mỹ ngày 10/7/1972, khi em vẫn còn mang đôi dép ấy. Chiếc cặp sách của em Nguyễn Thị Hảo cùng quê Đông Vệ là thứ duy nhất còn lại sau trận bom trưa cùng ngày. Những kỷ vật này không chỉ nhắc đến những sinh mệnh non trẻ bị cướp đi, mà còn là tiếng nấc thầm lặng của nhiều con trẻ chưa kịp bước vào đời.
Chiếc ca tráng men có in hình bông hoa hồng của liệt sĩ Nguyễn Thị Hoàn - cô gái 16 tuổi hy sinh khi đang đưa nước cho bộ đội tại trận địa Hàm Rồng được đặt trang trọng trong tủ kính. Một vật dụng nhỏ bé giữa chiến trường nhưng lại bừng sáng vẻ đẹp của lòng dũng cảm, của tuổi trẻ Việt Nam biết sống và biết chết vì nghĩa lớn. Cạnh đó là chiếc áo sơ mi thủng lỗ vì bom bi của một nông dân xã Yên Vực - nơi được mệnh danh là “túi đựng bom”. Những lỗ thủng chi chít trên áo là bằng chứng hùng hồn về sự sống sót thần kỳ và sự bám trụ kiên cường giữa làn mưa bom bão đạn của những người nông dân “vừa sản xuất, vừa chiến đấu”.
Đáng chú ý không kém là bộ dụng cụ y tế từng sử dụng tại Bệnh viện tỉnh Thanh Hóa - nơi bị đánh phá dữ dội năm 1972. Những mỏ vịt, panh, phoóc xép… đã từng cứu sống hàng trăm người trong điều kiện thiếu thốn, ác liệt. Chúng là biểu tượng của tinh thần y đức, của sự tận tụy quên mình của các y bác sĩ nơi tuyến đầu sinh tử.
Mộc mạc, giản dị nhưng đầy ám ảnh, những hiện vật ấy không cần lời chú thích dài dòng. Chúng tự thân lên tiếng, kể lại lịch sử, chạm vào cảm xúc sâu thẳm trong lòng người xem. Mỗi kỷ vật là một câu chuyện, một mảnh ghép của ký ức tập thể, nhắc nhớ chúng ta rằng hòa bình không phải là điều hiển nhiên. Độc lập, tự do là kết tinh của máu xương, nước mắt và khát vọng sống mãnh liệt của hàng triệu con người.
Cựu chiến binh Quách Minh Sơn - nguyên Trung úy trinh sát Sư đoàn 320 từng nghẹn ngào nhắn gửi thế hệ sau: “Tự do, hòa bình không phải dễ. Có được bây giờ, cố gắng mà giữ…” Câu nói ấy, mộc mạc mà thấm sâu, là thông điệp xuyên suốt mà Bảo tàng Thanh Hóa muốn gửi gắm.
Bảo tàng không chỉ là nơi lưu giữ hiện vật, mà còn là không gian nuôi dưỡng lòng yêu nước, tinh thần bất khuất và trách nhiệm với tương lai. Những gì còn lại nơi đây là những mảnh vỡ lịch sử, đồng thời cũng là khúc tráng ca bất tử về sự kiên cường, lòng quả cảm của quân và dân xứ Thanh - những con người đã góp phần làm nên nền hòa bình cho Tổ quốc hôm nay.
Một số hiện vật trưng bày:
| | |
| Áo sơ mi thủng lỗ vì bom bi của nông dân Yên Vực. | Bộ ấm chén của sư bà Đàm Thị Xuân (trụ trì chùa Mật Đa). |
| | |
| Bộ dụng cụ y tế của Bệnh viện tỉnh Thanh Hóa. | Chiếc túi cứu thương của chị Lê Thị Dung (dân quân tiểu khu Nam Ngạn) |
| | |
| Chiếc xoong nhôm của anh Mai Công Danh bị bom Mỹ phá hủy. | Chiếc phích nước của tiểu đội Công an nhân dân vũ trang Hàm Rồng bị phá hủy. |
| | |
| Túi học sinh của em Nguyễn Thị Hảo (học sinh giỏi trường cấp I); Đôi dép của em Cảnh (3 tuổi) xã Đông Vệ. | Chiếc ca đựng nước của liệt sĩ Nguyễn Thị Hoàn (16 tuổi). |
Lê Thị Hường – phòng Sưu tầm