Bác Hồ với thương binh, liệt sĩ.

Trong vô vàn tình thân yêu của Người dành cho toàn thể nhân dân, luôn có những tình cảm đặc biệt và một tấm lòng thương yêu vô hạn Bác dành cho thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ và những người có công với cách mạng.

Việt Nam – đất nước của chiến tranh và đau thương, mất mát; một đất nước nhỏ bé luôn phải gồng mình chiến đấu, bảo vệ bờ cõi trước những kẻ thù xâm lược hung hãn. Lịch sử hào hùng của dân tộc được viết bằng xương máu của biết bao thế hệ cha anh đi trước. Hơn ai hết, Bác Hồ thấu hiểu và luôn dành sự quan tâm sâu sắc, tri ân đối với các thương binh, liệt sĩ – những người hi sinh nhiều nhất cho độc lập, tự do hôm nay. Người từng viết: “Máu đào của các liệt sĩ đã nhuộm lá cờ cách mạng càng thêm đỏ chói. Sự hy sinh của các liệt sĩ đã chuẩn bị cho đất nước ta nở hoa độc lập, kết quả tự do". Cho nên đối với "những người con trung hiếu ấy, Chính phủ và đồng bào phải báo đáp thế nào cho xứng đáng", và Người giải thích: "Tổ quốc và đồng bào phải biết ơn, phải giúp đỡ những người con anh dũng ấy, mọi người phải luôn luôn học tập tinh thần dũng cảm của các liệt sĩ để vượt qua tất cả khó khăn, gian khổ hoàn thành sự nghiệp cách mạng mà các liệt sĩ đã để lại".

Cách mạng Tháng Tám thành công, đất nước đang cảnh thù trong, giặc ngoài, Bác vẫn luôn nghĩ đến công ơn của các thương binh, liệt sỹ. Trong bức thư của Bác đăng trên Báo Cứu quốc ngày 07/01/1946, Người viết: “Vì muốn thay mặt Tổ quốc, toàn thể đồng bào và Chính phủ cảm ơn những liệt sỹ đã hy sinh tính mệnh cho nền tự do, độc lập, thống nhất của nước nhà - hoặc trong thời kỳ cách mạng, hoặc trong thời kỳ kháng chiến, tôi gửi lời chào thân ái đến các gia đình liệt sỹ và tôi nhận các con liệt sỹ làm con nuôi của tôi ”.  Năm1946, Bác đã cùng Trung ương chỉ đạo thành phố Hà Nội thành lập Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam để giúp đỡ thương binh, liệt sỹ và sau khi ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, tháng 6/1947, Bác đã chỉ thị chọn một ngày trong năm làm ngày Thương binh toàn quốc và coi đó là một dịp cho nhân dân cả nước tỏ lòng hiếu nghĩa, bác ái và tỏ lòng yêu mến thương binh. Thực hiện chỉ thị của Bác, 6 giờ chiều ngày 27/7/1947, tại xóm Bàn Cờ, xã Hùng Sơn, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, lễ mít tinh công bố ngày Thương binh toàn quốc đã diễn ra. Tham gia mít tinh có đại biểu của Tổng bộ Việt Minh, tổng Hội Phụ nữ cứu quốc, Cục chính trị quân đội quốc gia Việt Nam, Nha thông tin tuyên truyền cùng đông đảo nhân dân huyện Đại Từ (Thái Nguyên). Tại hội nghị này, đại biểu các cơ quan, ban ngành Trung ương, khu, tỉnh nhất trí đề nghị Trung ương lấy ngày 27-7 làm ngày Thương binh toàn quốc và tổ chức ngay lần đầu tiên năm 1947. Từ năm 1955 đến nay, ngày “Thương binh toàn quốc” được đổi thành ngày “Thương binh liệt sĩ” và tên gọi đó được trân trọng lưu giữ cho đến hôm nay, trở thành ngày cả dân tộc Việt Nam tri ân công ơn các anh hùng, thương binh, liệt sĩ.

Bác Hồ đến thăm trường Thương binh hỏng mắt Hà Nội (Ảnh tư liệu)

Hàng năm cứ đến ngày 27-7, Bác Hồ không chỉ viết thư thăm hỏi mà còn gửi quà cho thương binh và các gia đình liệt sĩ. Trên báo Vệ quốc quân số 11, ra ngày 27-7-1947 đã đăng thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Thường trực Ban tổ chức “Ngày thương binh toàn quốc”. Đầu thư Người viết: “Đang khi Tổ quốc lâm nguy, giang sơn, sự nghiệp, mồ mả, đền chùa, nhà thờ của tổ tiên ta bị uy hiếp. Cha mẹ, anh em, vợ con, ao vườn, làng mạc ta bị nguy ngập. Ai là người xung phong trước hết để chống cự quân thù? Đó là những chiến sĩ mà nay một số đã thành ra thương binh” và Bác giải thích:"... Thương binh là những người đã hy sinh gia đình, hy sinh xương máu để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ đồng bào. Vì lợi ích của Tổ quốc, của đồng bào mà các đồng chí đó chịu ốm yếu, què quặt. Vì vậy, Tổ quốc và đồng bào phải biết ơn, phải giúp đỡ những người con anh dũng ấy ...". Cuối thư, Người đã vận động bà con, đồng bào cả nước nhường cơm sẻ áo, giúp đỡ thương binh. Còn Bác đã xung phong góp chiếc áo lụa, một tháng lương và tiền ăn một bữa của mình và của tất cả các nhân viên của Phủ Chủ tịch, tổng cộng là một ngàn một trăm hai mươi bảy đồng (1.127 đồng) để tặng thương binh. Bác luôn đề cao sự hi sinh, cống hiến của các thương binh, liệt sĩ.

Ngày 16/2/1947, Bác ký Sắc lệnh số 20/SL quy định “chế độ hưu bổng, thương tật và tiền tuất tử sĩ”, mở đầu cho sự ra đời và phát triền của hệ thống chính sách dành cho thương binh – liệt sĩ. Ngày 03/10/1947, Bác ký Sắc lệnh số 613 thành lập Bộ Thương binh - Cựu binh (tiền thân Bộ Lao động, thương binh và xã hội ngày nay) để chuyên trách công việc to lớn, ý nghĩa này.

Trong những năm sống và làm việc tại Hà Nội, vào đêm giao thừa Bác Hồ thường đi thăm và chúc tết nhiều nơi, nhưng giao thừa năm 1956, Bác chỉ đến thăm duy nhất Trường Thương binh hỏng mắt Hà Nội và tặng cho anh em một chiếc áo mà đồng bào miền Nam gửi tặng Người. Chính trong dịp này, Người đã nói: "Thương binh tàn nhưng không phế". Một câu nói đơn giản nhưng sâu sắc biết bao.

Cho đến trọn cuộc đời, trước lúc đi xa, trong di chúc, Người còn dặn: “Đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình (cán bộ, binh sỹ, dân quân, du kích, thanh niên xung phong…), Đảng, Chính phủ và đồng bào phải tìm mọi cách cho họ có nơi ăn chốn ở yên ổn, đồng thời phải mở lớp dạy nghề thích hợp với mỗi người để họ có thể dần dần tự lực cánh sinh… đối với cha mẹ, vợ con (của thương binh và liệt sỹ) mà thiếu sức lao động và túng thiếu thì chính quyền địa phương (nếu ở nông thôn thì chính quyền xã và hợp tác xã nông nghiệp), phải giúp đỡ họ có công ăn việc làm thích hợp, quyết không để họ bị đói rét…”. Thực hiện những lời dạy quý báu của Bác Hồ kính yêu, Đảng và Nhà nước ta đã có những chính sách ưu tiên đối với thương binh, liệt sĩ và gia đình, con em của họ. Đây cũng là trách nhiệm của toàn xã hội để tri ân những người có công với nước, không chỉ là một ngày 27/7 hay một lễ kỉ niệm mà luôn cần hơn những việc làm thiết thực cả về vật chất lẫn tinh thần, để  những người đã hi sinh, mang thương tật vì độc lập tự do của dân tộc và gia đình của họ vơi bớt khó khăn giữa cuộc sống hòa bình hôm nay.

Hoàng Mai Hương
 (Phòng Sưu tầm)