`

2145 người đang online

Giá trị đặc sắc sưu tập đồ thờ Bạc tại Bảo tàng Thanh Hóa

Đăng ngày 14 - 11 - 2018

Bảo tàng tỉnh Thanh Hóa hiện đang lưu giữ bộ đồ thờ được sưu tầm ở Đền Sòng gồm 59 hiên vật được làm bằng bạc, một số có khảm vàng, gắn đá. Do chế tác bằng chất liệu quý, nên bộ đồ thờ có kích thước nhỏ, được chạm khắc tinh xảo, nhiều đề tài phong phú, mang đậm yếu tố tôn giáo và cung đình.

Đền Sòng Sơn (Đền Sòng) thuộc làng Cổ Đam, tổng Trung Bạn, huyện Tống Sơn, phủ Hà Trung (nay thuộc phường Bắc Sơn, thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa) nơi nữ thần Giáng Tiên (tức Liễu Hạnh công chúa) hiển thánh sau giáng trần lần thứ ba, nơi đó được dân gian xây dựng thành phủ đường để hương khói thờ đức Thánh Mẫu Liễu Hạnh. Còn về thời gian cụ thể đền Sòng Sơn được xây dựng còn có ý kiến khác nhau. Theo văn bia hiện có ở đền bằng tiếng Pháp dựng năm 1939 có ghi, đền được xây dựng từ thời Lê ngôi đền có hơn 300 năm. Theo khảo cứu của học giả người Pháp - H.Le Breton được công bố trong cuốn "Những đền chùa và những nơi lịch sử trong tỉnh Thanh Hóa" (xuất bản năm 1920) thì Đền Sòng được xây dựng vào thời Lê Trung Hưng, triều vua Lê Hiển Tông (1740 -1786). Đến thời Nguyễn một số bia hiện còn ở đền Sòng tiếp tục ghi việc quyên góp tu sửa, xây dựng mở rộng thêm vào năm Duy Tân thứ 6 (1912), đến năm Khải Định thứ 4 (1919) mở đầu bia công đức có ghi "Điện Sòng Sơn ở ấp này, anh linh từ xưa, dấu thiêng nổi tiếng, núi bốn phía chầu về, trước sau sông nước uốn lượn, nối tiếp ông cha đời trước, quy mô đã đầy đủ, tối tú tối linh, tất cầu tất ứng, người các nơi khắp nam bắc xa gần, đông tây đến chầu", năm Bảo Đại thứ 3 (1928) và năm thứ 14 (1939) tiếp tục đươc tu sửa. Sau đó đền bị hư hại dần trong những năm kháng chiến chống Pháp, theo cùng là số đồ thờ quý của đền được nhân dân quanh đền đem về cất giữ cho đến khi hòa bình lập lại. Để đảm bảo an toàn cho bộ đồ thờ, người dân cùng với chính quyền địa phương đã chuyển gửi Ngân hàng Nhà nước chi nhánh thị xã Thanh Hóa cất giữ. Đến năm 1973, được sự đồng ý của chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa, Ngân hàng đã bàn giao toàn bộ số đồ thờ đó cho Bảo tàng tỉnh lưu giữ, bảo quản và phát huy, từ đó đến nay đã trải qua gần nửa thế kỷ.

Đã từ bao đời nay đền Sòng Sơn nổi tiếng linh thiêng không chỉ với người dân Thanh Hóa mà hầu khắp trên cả nước biết đến. Chính vì vậy đền Sòng nhiều lần bị hư hỏng đã được những nhà hảo tâm cùng nhân dân gần xa quyên góp tiền của để tu sửa, phục hồi và trong quyên góp tu sửa đó đã có cả cung tiến đồ thờ. Trong số đó có bộ đồ thờ bằng bạc quý giá hiện đang được lưu giữ, bảo quản tại Bảo tàng tỉnh Thanh Hóa. Tuy không ghi niên đại hay các dấu hiệu cụ thể chỉ rõ năm sản xuất, nhưng với chất liệu, kiểu dáng, phong cách, đặc biệt là đề tài trang trí tứ linh, tứ quý, lưỡng long chầu nhật (rồng, phượng, tùng, cúc, trúc, mai, hoặc sen dây)… đã khẳng định niên đại tương đối của chúng là vào thế kỷ 19. Bộ đồ thờ gồm có các loại hình, được phân loại thành những nhóm sau đây:

- Đỉnh: có ba phần: nắp, thân và chân. Nắp hình tròn, thành nắp đứng. Giữa nắp chạm nổi hình rồng, quanh trang trí 10 bông hoa cúc dây, được bố trí đứng, nằm xen kẽ nhau. Thân đỉnh hình trụ, miệng và thành đứng, đáy cong. Trên thân chạm 6 cành cúc, phân bố đều nhau. Đỉnh có 3 chân quỳ liền thân. Chân đỉnh chạm nổi lá cúc.

- Hạc, 2 chiếc (một đôi), đối xứng nhau. Tượng hạc đứng trên rùa. Hạc tả thực với mào, mỏ, mắt sinh động. Trên cổ chạm nổi hai chữ Hán “Sòng Sơn”. Cánh hạc cụp, đuôi hạc rủ xuống, chân cao, bàn chân có 4 ngón. Mắt, đuôi, cánh hạc điểm vàng. Rùa có đầu ngẩng cao, mai chạm hoa văn cẩm quy, bụng rùa chạm ô vuông. Mắt, móng rùa điểm vàng.

- Kiếm: 2 chiếc, tạo thành đôi đối xứng. Kiếm có kích thước và dáng hình như kiếm chiến, nhưng chất liệu và hoa văn trang trí chỉ rõ chức năng thờ của chúng. Vỏ kiếm làm bằng bạc, được chia thành 3 mảng trang trí. Chủ đề trang trí chủ đạo là tứ linh (Long - Ly - Quy - Phụng). Lưỡi kiếm làm bằng bằng bạc, được tạo cong theo chiều cong của vỏ, vuốt nhọn về mũi. Chắn tay kiếm uốn cong, một bên nối với chuôi, trang trí chim phượng. Đốc kiếm hình đầu lân.

- Hài: 1 đôi, làm bằng bạc. Hài tạo hình chim phượng. Mũi hài là đầu phượng, được tạo mỏ, mào, mắt, lông cổ rất sống động. Cổ phượng gắn một bông hoa sen, nhụy là đá trắng, có cuống hình lò xo, làm bằng kim loại mềm nên rung rinh như đang chuyển động. Mình phượng là thân hài, có 1 cánh mảnh đối xứng với cánh bên kia, khiến hạc có tư thế như đang bay khỏi mặt đất. Bên ngoài thân hài trang trí hoa mai, được bao bằng những đường chạm nổi.

- Hoa tai, 1 đôi làm bằng bạc, có sự tham gia của đá. Chính giữa gắn đá màu trắng, bên dưới có tua, gắn hình trổ thủng, quanh gắn 7 viên đá nhỏ nhiều màu. Xen kẽ 7 viên đá là 7 tua zíc zắc, bản dẹt, hình giọt nước, một tua có gắn đá màu đỏ.

- Chuỗi hạt, có ba chuỗi, đều được làm bằng bạc, với kỹ thuật rất tỉ mỉ và trau chuốt. Hai chuỗi có số hạt bằng nhau (108 hạt). Tất cả đều có móc xuyên lỗ, liên kết với nhau từ một sợi dây kim loại rất mỏng manh, tinh xảo. Trên mỗi hạt có chạm chữ "Thọ" hoặc hoa sen, móc chạm chữ "Cát". Chuỗi thứ ba có 151 hạt, nhưng chế tác không tinh xảo như hai chuỗi trên. Hài, hoa tai, chuỗi hạt là y phục và trang sức của Thánh Mẫu.

- Thẻ bài, có 4 tiêu bản, hình dáng tương đối giống nhau. Thẻ hình chữ nhật, mảnh. Núm đeo thẻ hình khánh. Giữa núm chạm nổi bông hoa có cánh tròn, quanh là cành lá. Trên móc có lỗ xỏ dây đeo. Mặt trước khánh chạm nổi "Lưỡng long chầu nhật" và hai chữ Hán "Cung Tiến". Cũng có tiêu bản chạm nổi hai chữ "Quan Hoàng", với đôi chút khác biệt về hoa văn, đó là một mặt hổ phù nằm ở bên trên, giữa đề tài "Lưỡng long chầu nhật". Một tiêu bản khác lại chạm nổi 4 chữ Hán "Cung Tiến Thánh Bà". Như vậy, cả 4 chiếc khánh đều liên quan tới "Thánh và Quan", những chức sắc trong đạo Mẫu.

- Khánh, 1 tiêu bản, hình dáng hệt như một chiếc nấm, hai mặt chạm nổi hình rồng, phượng trên nền hoa văn vảy rồng nhỏ li ti.

- Cau, trầu: là cặp đôi trong đồ thờ nói chung và đền Sòng nói riêng.

Cau được làm bằng bạc tạo thành chùm 3 quả, điểm vàng. Kỹ thuật chạm rất sinh động với những nét chấm vàng như cau chín và những cuống cau như bị héo.

Trầu không cũng ba lá, được tạo cuống, gân và hình dáng như những lá trầu thật.

- Ống vôi, có 2 tiêu bản, được tạo thành hai phần: thân và nắp. Nắp hình lục lăng, có dây xích đính vào que lấy vôi hình thanh kiếm, chuôi que trang trí hoa văn bướm, hoa. Thành nắp chạm nổi 6 cành hoa ở 6 cạnh, đệm ở trên, dưới là băng hoa 6 cánh. Họa tiết hoa văn trên ống vôi dày đặc, nét chạm tinh xảo, phản ánh trình độ điêu luyện của người thợ kim hoàn xưa.

- Bình rượu, 1 tiêu bản, làm bằng bạc, vẫn còn giữ được dáng hình truyền thống của một chiếc nậm cổ cao, thân lựu đạn. Tuy nhiên, sự xuất hiện chiếc quai, dù đã được cách điệu, vẫn toát lên sự giao thoa văn hóa với phương Tây. Nậm miệng nhỏ, có nắp đậy, trên nắp có núm hình quả. Miệng bình tạo hình giọt nước ở một phía để rót rượu. Thành miệng phía ngoài chạm nổi 3 con dơi, biểu trưng cho "ngũ phúc". Quai bình hình dấu hỏi, cách điệu rồng rắn nhưng không tỉa tót, chau chuốt như những nét chạm tinh tế trên thân. Thân chạm nổi hình rồng quanh chữ "Thọ". Đây là mô típ khá phổ biến trong nghệ thuật trang trí thời cuối Nguyễn.

- Ly rượu có 4 tiêu bản, làm bằng bạc. Ly lòng sâu, chân cao, mảnh, có đế tròn tạo sự vững chãi. Bốn chiếc ly cùng với bình trên đây, tạo thành bộ đồ rượu dùng trong nghi lễ. Nếu như bình còn lưu giữ được dáng hình truyền thống, thì 4 chiếc ly, hoàn toàn chịu ảnh hưởng phương Tây. Tuy nhiên, kể cả bình và ly, đề tài trang trí vẫn là mai, cúc, trên đó có một vài bông điểm vàng.

- Tách, có 5 tiêu bản, làm bằng bạc. 4 tách có miệng rộng, thành vát, không chân đế, trôn lõm, quai được tháp gỗ, đục thủng, thô. Đây cũng là loại hình chịu ảnh hưởng của tách cà phê phương Tây. Tuy nhiên, đề tài trang trí lại mang đậm dấu ấn phương Đông, đó là cúc, trúc được diễn tả chi tiết, tỉ mỉ như những nét công bút của hội họa mực nho. Chiếc thứ năm, khác 4 chiếc trên về kiểu dáng. Tách miệng đứng, thành cong, lòng sâu, chân đế thấp, quai cách điệu cành cây. Thân chạm nổi hoa văn; người chèo thuyền có cắm cờ, lau, chim.

- Chén, có 5 tiêu bản, dáng hình trụ, miệng có gờ, thành cong, lòng sâu, chân đế thấp. Vành miệng bên ngoài tạo rãnh, hình sống trâu. Hoa văn trang trí nổi “Lưỡng long chầu nhật”, hoa cúc và hai chữ “Phụng Tiến” được khảm vàng, bố trí đối nhau. 1 trong 4 chiếc sát chân đế là băng hoa văn cánh sen bao quanh, dưới đáy khắc 2 chữ Hán “Cung Tiến”.

- Đĩa, có 5 tiêu bản, làm bằng bạc, hình tròn, lòng nông, kích thước có sự khác nhau:

+ 2 chiếc lớn, lòng bổ ô, chạm nổi tứ linh. Phân cách giữa các ô là hoa 6 cánh. Giữa lòng là chữ “Thọ” cách điệu, bao ngoài là băng văn tròn dấu X. Đáy có 2 chữ Hán “Sùng Sơn”.

+ 3 chiếc nhỏ, có hoa văn trang trí tứ linh, rồng vắt qua chữ "Thọ", hoa đào, hoa cúc.

- Bát, có 3 tiêu bản, làm bằng bạc. Bát miệng đứng, thành cong, lòng sâu, chân đế thấp, đế lõm. Thân chạm nổi đề tài mây, “Lưỡng long chầu nhật”, lưỡng long chầu 2 chữ Hán “Cung Tiến”. Bao trên dưới hai đề tài chủ đạo này là hai băng ô trám đơn được khắc sâu. Trên đáy của hai chiếc bát có khắc chữ Hán “Sòng Sơn” và “Vạn Toàn”, chữ “Vạn Toàn” nhỏ hơn.

- Lộc bình, có 4 tiêu bản, miệng loe, cổ thấp, thân trái chuông thuôn dần xuống đáy, đế hai cấp. Trên thân chạm nổi 4 chữ Hán “Cung Tiến Sòng Sơn”, dát vàng.

- Hộp, có số lượng tương đối nhiều, đều làm bằng bạc. Dựa vào hình dáng, có thể chia thành 5 loại sau đây:

+ Hộp khối chữ nhật (4 tiêu bản), hộp có nắp đậy, hoa văn phủ dày trên cả thân và nắp. Đề tài trang trí chủ yếu là rồng, chữ Hán “Phúc”, hoa, lá (nho sóc, đào, cúc, sen, mẫu đơn), tùng, trúc. Những nét chạm nổi, khắc chìm được thể hiện tỉ mỉ, tỉa tót, chi tiết.

Loại khối hộp, còn 01 tiêu bản, chỉ còn vỏ hộp, (ruột đã bị mất). Toàn bộ vỏ được phủ vàng. Mặt trên chạm nổi cành hoa đào và hai con chim đậu. Hai bên trổ thủng, dường như để khoe họa tiết hoa văn ruột hộp bên trong. Mảng ít ỏi còn lại, chạm hoa, lá. Đáy hộp là hồi văn chữ “Vạn”.

+ Hộp hình trụ (2 tiêu bản), cũng được làm bằng bạc, có đôi chút khác biệt về hoa văn trang trí.

Hộp thứ nhất có nắp phủ kín xuống đáy, đáy chờm ra khỏi thân, giống như tráp khảm trai và sơn mài ngày nay. Giữa mặt nắp chạm hoa lá cách điệu, bao quanh là tứ linh. Thành nắp chia 4 ô, chạm nổi chim và điểm vàng hoa mai - hoa mẫu đơn - hoa cúc - trúc - một biến thể trong nhiều biến thể từ bộ sưu tập này qua đề tài tứ quý.

Đệm vào mảng đề tài chính là hoa văn nền gấm chữ “Vạn” và hoa lá. Thành bên trong hộp có đề tài tương tự. Trong hộp có khay chia thành ngăn, vành trang trí văn lá đề, hoa 4 cánh.

Chiếc thứ hai, có kỹ thuật chế tác giống chiếc trên, nhưng hoa văn trang trí phong phú hơn. Giữa mặt nắp chạm nổi cành hoa hồng, xunh quanh là đề tài bát tiên với những nét chạm, khắc tinh tế. Đệm giữa những mảng đề tài chính là hồi văn chữ “Vạn”.

Thành nắp bổ ô, chạm nổi 4 cành hoa: đào - cúc - sen - hồng. Đệm giữa các ô là hoa văn nền gấm chữ vạn. Bên trong bổ ô, trang trí đào - cúc - trúc - hồng. Phân cách giữa các ô là văn tổ ong. Trong hộp có khay chia ngăn, 4 góc chạm nổi hoa đào, xung quanh là hồi văn chữ “Công”.

+ Hộp hình lục giác, (1 tiêu bản), hộp 6 cạnh, nắp chạm nổi 2 con dơi ngậm hoa đang bay trên mây, đối xứng nhau. Thân chạm nổi hoa đào, hoa cúc, mẫu đơn đối xứng nhau.

+ Hộp hình rổ, có 2 tiêu bản, được làm bằng bạc. Hộp có dáng tựa như một chiếc rổ đan bằng tre, miệng rộng, có nắp vồng, thân vát, lòng không sâu, đáy tròn. Chính giữa nắp gắn núm hình con bướm, đính trên lò xo kim loại mềm, đàn hồi, nên khi di chuyển, bướm rung lên như đang bay. Trên mặt nắp chạm nổi tứ linh, xen kẽ là văn hoa lá, đệm hồi văn ô trám lồng. Vành nắp là băng hồi văn tam giác trong có vạch chéo song song. Sát miệng, chạm nổi 4 mảng hoa cúc - mai - sen - mẫu đơn, được khuôn trong những hình lá đề lớn khắc chìm. Bốn lá đề nhỏ xen kẽ lá đề lớn, chạm tia hào quang. Đáy trổ thủng, tạo thành hoa 4 cánh.

+ Hộp hình thúng, có 2 tiêu bản, được làm bằng bạc. Hộp có dáng tựa như một chiếc thúng đan bằng tre, có nắp đậy, kích thước nhỏ hơn hộp rổ. Nắp đậy hơi vồng. Miệng hộp rộng, lòng sâu, thân đứng, đáy bằng. Hoa văn trên nắp và thân giống nhau và tương tự hộp rổ. Đáy trổ thủng tạo ô vuông nhỏ.

- Ống nhổ, có 1 tiêu bản, miệng loe, mép tạo gờ nổi, cổ thắt, thân hình cầu dẹt, đáy lõm. Vai trang trí băng hoa 6 cánh, tiếp đến là các bông hoa trong hình tròn. Thân chạm nổi đề tài tứ linh. Đệm giữa 4 linh thú là 4 chữ Hán “Phúc”, “Lộc”, “Thọ”, “Khang” trên hình tròn nổi. Tiếp giáp đáy chạm băng hoa văn tổ ong đều đặn như đúc khuôn.

Qua những khảo tả trên đã cho thấy, bộ đồ thờ được làm bằng chất liệu quý hiếm, có chung một phong cách kỹ thuật và nghệ thuật, trên đó có khắc và chạm nổi chữ Hán “Sòng Sơn”, “Sùng Sơn”, “Cung tiến” hay “Phụng tiến”…, chẳng những phần nào minh định cho truyền thuyết và tài liệu thành văn về niên đại sớm của di tích, mà còn khẳng định, đó là đồ thờ được cung tiến vào cùng một thời điểm cho đền Sòng Sơn, khi nó đã vốn nổi tiếng từ trước đó. Bộ đồ thờ không có dấu hiệu cụ thể chỉ rõ năm sản xuất, nhưng những đề tài trang trí, đặc biệt là tứ linh, tứ quý, lưỡng long chầu nhật, mặt hồ phù, rồng phượng, hoa cúc, hoa sen dây… đã khẳng định niên đại tương đối của chúng là cuối thế kỷ 19. Đó là thời kỳ được các tài liệu lịch sử và văn hóa cho rằng, Phật giáo và Nho giáo trong dân gian đã đi đến thoái trào, Thiên chúa giáo chưa đủ sức thâm nhập sâu vào cộng đồng làng xã của người Việt, theo đó, tín ngưỡng dân gian trỗi dậy. Đền Sòng và bộ đồ thờ chất liệu quý là một trong rất nhiều ví dụ minh họa cho nhận định trên.

Có thể khẳng định rằng, đây là bộ đồ thờ, tuy không hoàn toàn đầy đủ, nhưng duy nhất có số lượng lớn, niên đại tương đối cổ xưa còn lại đến nay trong tín ngưỡng thờ Mẫu nước ta.

Trong sưu tập này, những loại hình và đề tài trang trí truyền thống được khai thác và thể hiện đậm nét, nhưng cũng thấy được sự giao thoa văn hóa với phương Tây qua bộ bình rượu, ly, tách. Dẫu có sự tiếp thu về kiểu dáng nhưng đề tài trang trí lại hoàn toàn mang giá trị truyền thống Việt Nam nói riêng và phương Đông nói chung.

Ngay cả với Đông Phương, mẫu hình tứ quý thường được thể hiện, tùng, cúc, trúc, mai, nhưng trên bộ sưu tập này, tứ quý được biến thể thành đào, sen, hồng, cúc và cùng nhiều biến thể khác nữa. Đó là những biến thể đã từng thấy trên đồ gốm Việt Nam thế kỷ 15, khai quật được tại tàu cổ Cù Lao Chàm, Hội An (Quảng Nam).

Trong bộ sưu tập, xuất hiện những loại hình vô cùng mới mẻ và khác lạ, đó là hộp hình rổ, hộp hình thúng, rất thân quen với rổ thúng bằng tre của người nông dân vùng đồng bằng Bắc Bộ, nhưng chưa từng thấy trên những chất liệu bằng kim loại suốt từ thời Sơ sử, cách đây vài nghìn năm cho đến nay.

Sự độc đáo và ấn tượng nhất của bộ sưu tập đồ thờ Đền Sòng, chính là kỹ thuật chế tác kim hoàn của những người thợ thủ công thời bấy giờ. Những mảng đề tài chạm nổi kết hợp khắc chìm, được thể hiện qua rất nhiều thể tài, từ đơn giản đến phức tạp, từ thưa thớt đến dày đặc, từ tâm linh đến phong cảnh… đều chi tiết, chặt chẽ với những nét nhỏ li ti như sợi tóc, khiến cho những người thợ kim hoàn ngày nay phải thán phục, ngay cả sao chép lại cũng không thể thực hiện. So sánh bộ sưu tập này với những bảo vật Hoàng cung triều Nguyễn hiện đang lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia, chúng không thua kém về kỹ thuật chế tác.

Bộ đồ thờ tại đền Sòng gắn với một di tích tâm linh thờ Mẫu nổi tiếng ở đồng bằng Bắc Bộ. Thờ Mẫu với nội dung cốt lõi của nó là thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu, đã được UNESCO vinh danh là Di sản văn hóa Phi vật thể của nhân loại, do đó, bộ sưu tập này, chắc chắn có mối liên hệ, qua một sưu tập vật thể, được xem là hoàn chỉnh và có niên đại cổ xưa nhất trong tín ngưỡng thờ Mẫu được biết cho tới nay ở Việt Nam. Trưng bày không gian tín ngưỡng thờ Mẫu, kể cả nghệ thuật trình diễn hay thực hành tín ngưỡng không thể thiếu vắng bộ sưu tập này trong bất cứ cuộc trưng bày nào ở trong và ngoài nước. Bộ sưu tập sẽ đóng vai trò, vị trí quan trọng và có ý nghĩa trong không gian trưng bày ấy, khi thờ Mẫu và tín ngưỡng thờ Mẫu đã trở thành một phần trong đời sống văn hóa tâm linh của cộng đồng người Việt.

Mẫu Liễu Hạnh được người dân Việt Nam tôn thờ là Quốc Mẫu. Đền Sòng Sơn thờ mẫu Liễu Hạnh, cho đến thời Nguyễn vẫn là một Quốc từ với sự vinh danh đền thờ ấy là “Linh Từ Quốc Mẫu” thờ “Mẫu nghi thiên hạ”. Bộ đồ thờ ở Đền Sòng Sơn được làm bằng chất liệu quý, đề tài trang trí mang đậm dấu ấn cung đình với kỹ thuật chạm khắc tuyệt đỉnh. Do vậy, chúng phải được Ngự xưởng thực hiện. Thanh Hóa là đất phát tích của triều Nguyễn, quê hương các vị chúa Nguyễn, Đền Sòng là Quốc từ, do đó, những đồ thờ được cung tiến vào đây, phải chăng là của các ông hoàng, bà chúa trong Hoàng cung quyên góp.

Vì vậy bộ đồ thờ là những báu vật đang được Bảo tàng tỉnh Thanh Hóa bảo quản, gìn giữ và từng bước tổ chức trưng bày giới thiệu phục vụ công chúng.

Một số hình ảnh hiện vật trong bộ sưu tập đồ thờ bạc Đền Sòng lưu giữ tại Bảo tàng tỉnh Thanh Hóa.

Khánh thờ
Kiếm thờ
Hạc thờ
Hài thờ
Bình, ly rượu
Lộc bình
Tách
Hộp đựng trang sức
Ths. Trịnh Đình Dương
Giám đốc Bảo tàng tỉnh Thanh Hóa

Ý kiến bạn đọc
    <

    Tin mới nhất

    Bảo tàng Thanh Hóa với công tác phát huy giá trị di sản văn hóa cách mạng (Phần 2)(22/08/2024 2:44 CH)

    Bảo tàng Thanh Hóa với công tác phát huy giá trị di sản văn hóa cách mạng (Phần 1)(14/08/2024 7:49 SA)

    Chỉnh lý trưng bày: Mâu thuẫn và Thách thức(10/10/2019 9:08 SA)

    Vài nét tìm hiểu về đặc trưng và sự phát huy giá trị các sưu tập hiện vật lịch sử, văn hóa của...(24/04/2019 8:35 SA)

    Tổ chức bài học lịch sử tại bảo tàng địa phương cho học sinh phổ thông (qua thực tiễn sư phạm ở...(24/04/2019 8:32 SA)

    <

    Tin liên quan

    Bảo tàng Thanh Hóa với công tác phát huy giá trị di sản văn hóa cách mạng (Phần 2)(22/08/2024 2:44 CH)

    Bảo tàng Thanh Hóa với công tác phát huy giá trị di sản văn hóa cách mạng (Phần 1)(14/08/2024 7:49 SA)

    Chỉnh lý trưng bày: Mâu thuẫn và Thách thức(10/10/2019 9:08 SA)

    Vài nét tìm hiểu về đặc trưng và sự phát huy giá trị các sưu tập hiện vật lịch sử, văn hóa của...(24/04/2019 8:35 SA)

    Tổ chức bài học lịch sử tại bảo tàng địa phương cho học sinh phổ thông (qua thực tiễn sư phạm ở...(24/04/2019 8:32 SA)

    Hiện vật tiêu biểu